Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà!
Tự đắc
thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọc
Ta nghĩ như ta có dại gì
Ai chơi, chơi với, chẳng cần chi Kìa thơ tri kỷ đàn anh nhất Nọ phách phong lưu bậc thứ nhì Ăn mặc vẫn ra người lịch thiệp
Giang hồ cho biết bạn tương tri Gặp thời gặp vận nên bay nhảy Cho thoả rằng sinh chẳng lỗi thì .
Tự cười mình
thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọ
Chẳng phải quan mà chẳng phải dân,
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hoá ra đần. Hầu con chè rượu ngày sai vặt, Lương vợ ngô khoai tháng phát dần. Có lúc vểnh râu vai phụ lão, Cũng khi lên mặt dáng văn nhân. Sống lâu, lâu để làm gì nhỉ? Lâu để mà xem cuộc chuyển vần!
THAN NGHÈO
thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọc
Lúc túng toan lên bán cả trời, Trời cười thằng bé nó hay chơi. Cho hay công nợ âu là thế, Mà vẫn phong lưu suốt cả đời. Tiền bạc phó cho con mụ kiếm, Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi. Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng, Khéo khéo không mà nó cũng rơi.
Dại khôn
thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọc
Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn. Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, Dại chốn vẵn chương, ấy dại khôn. Này kẻ nên khôn đều có dại, Làm người có dại mới nên khôn. Cái khôn ai cũng khôn là thế, Mới biết trần gian kẻ dại khôn.
Cảm Tết
thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọc
Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo, Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu. Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy, Trà sen mượn hỏi, giá còn kêu. Bánh chưng sắp gói, e nồm chảy, Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu. Thôi thế thì thôi, đành tết khác, Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo!
Đùa chị Hằng, thằng Cuội
Thơ Trần Tế Xương - Hồng Lam diễn đọc
Tôi thấy người ta có bảo rằng: Bảo rằng thằng Cuội ở cung trăng! Chứa ai chẳng chứa, chứa thằng Cuội, Tôi gớm gan cho cái chị Hằng.
VOH - Tú Xương được biết đến là một nhà thơ đặc biệt trong làng thơ trào phúng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Mỗi bài thơ Tú Xương viết nên như 1 mảnh ghép để ghép lại thành bức tranh trào phúng về lịch sử.
MỤC LỤC
Tú Xương - người duy nhất của làng trào phúng Việt trong thời đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xứng đáng với tên gọi người kể chuyện cười bằng thơ. Tác phẩm ông để lại gồm nhiều thể loại: thơ, phú, câu đối, hát nói,... phần lớn đều bằng chữ Nôm. Sau đây là một số bài thơ Thú Xương hay nhất được VOH tổng hợp.
Tú Xương là ai?
Tú Xương (Trần Tế Xương) tên thật là Trần Duy Uyên, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích. Ông sinh ra tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.
Tú Xương nổi tiếng thông minh, nhưng cuộc đời ông lận đận chuyện thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.
Cuộc sống của ông thiếu thốn về vật chất. Sự nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn biền mà ông trải qua được ông lột tả một cách chân thực nhất thông qua những vần thơ của mình.
Có thể nói, cả đời Tú Xương hầu như chỉ làm thơ trào phúng, trong đó nổi bật nhất là chuyện thi cử và những điều mắt thấy tai nghe. Bên cạnh dòng thơ trào phúng, ông cũng để lại cho đời những bài trữ trình thắm thiết, trong đó nổi bật có bài thơ Thương vợ.
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, ông đã để lại cho nền văn học dân tộc với hơn 150 bài thơ đủ các thể loại. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như:
Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ - NXB Văn hóa
Thơ văn Trần Tế Xương - NXB Văn học (1970)
Tú Xương thi tập do nhà sách Phúc Chí - 95 Hàng Bồ, Hà Nội
Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương)
Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán (1931 - sau có tái bản)
Những bài thơ trào phúng của Tú Xương
Tú Xương được biết đến là một nhà thơ trào phúng xuất sắc. Nét độc đáo trong thơ Tú Xương chính là sự kết hợp giữ các yếu hiện thực, trào phúng và trữ tình để nói lên tiếng lòng của mình.
Sông Lấp
Sông kia rày đã nên đồng, Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai. Vẳng nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Mùa nực mặc áo bông
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông, Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không! Một tuồng rách rưới con như bố, Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng. Đất biết bao giờ sang vận đỏ? Trời làm cho bõ lúc chơi ngông! Gần chùa gần cảnh ta tu quách, Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng.
Tự cười mình
1.
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành Mắt thời thao láo, mặt thời xanh Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ Rượu chè trai gái đủ tam khoanh Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành
2.
Lúc túng toan lên bán cả trời Trời cười thằng bé nó hay chơi Cho hay công nợ âu là thế Mà vẫn phong lưu suốt cả đời Tiền bạc phó cho con mụ kiếm Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng Khéo khéo không mà nó cũng rơi.
Bợm Già
Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang, Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng. Kiện hết sở Tuần, vô sở Sứ Khi thì thầy số, lúc thầy lang. Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm, Phong lưu đài các giống ông hoàng. Phong lưu như thế phong lưu mãi, Điếu ống, xe dài độ mấy gang?
Bỡn Tri Phủ Xuân Trường
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên. Chữ “thôi” chữ “cứu” không phê đến, Ông chỉ quen phê một chữ “tiền”!
Ông cò
Hà Nam danh giá nhất ông cò Trông thấy ai ai chẳng dám ho Hai mái trống toang đành chịu dột Tám giờ chuông đánh phải nằm co Người quên mất thẻ âu trời cãi Chó chạy ra đường có chủ lo Ngớ ngẩn đi xia may vớ được Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to!
Thói đời
Người bảo ông điên, ông chẳng điên, Ông thương ông tiếc hoá ông phiền. Kẻ yêu người ghét hay gì chữ, Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền. Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch, Được voi tấp tểnh lại đòi tiên. Khi cười khi khóc khi than thở, Muốn bỏ văn chương học võ biền!
Ba cái lăng nhăng
Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ đó Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Quan tại gia
Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng, Bốn con làm lính, bố làm quan. Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế, Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng. Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa, Trống hầu vừa dứt, bố lên thang. Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ, Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Đi Hát Mất Ô
Đêm qua anh đến chơi đây Giày chân anh dận, ô tay anh cầm Rạng ngày sang trống canh năm Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ Hỏi ô, ô mất bao giờ Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa Chỉn e rầy gió mai mưa Lấy gì đi sớm về trưa với tình?
Đất Vị Hoàng
Có đất nào như đất ấy không? Phố phường tiếp giáp với bờ sông. Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt, Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng. Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh, Có đất nào như đất ấy không?
Vì Tiền
Vì chưng chẳng có, hoá thân hèn, Hổ với anh em, chúng bạn quen. Thuở trước chơi bời còn quyến luyến, Bây giờ đi lại dám mon men! Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc, Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen. Ví khiến trong tay tiền bạc có Nói dơi nói chuột, chán người khen.
Vịnh Khoa thi hương (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa. Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra. Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Giễu người thi đỗ
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông Nó đỗ khoa này có sướng không Trên ghế bà đầm ngôi đít vịt Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng!
Phường nhơ
Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ. Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ. Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế, Vẽ ông ôm đít để lên thờ.