https://voh.com.vn/song-dep/tho-tu-xuong-529724.html#google_vignetteauthor-
Tổng hợp 33 bài thơ Tú Xương hay nhất
Tú Xương - người duy nhất của làng trào phúng Việt trong thời đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xứng đáng với tên gọi người kể chuyện cười bằng thơ. Tác phẩm ông để lại gồm nhiều thể loại: thơ, phú, câu đối, hát nói,... phần lớn đều bằng chữ Nôm. Sau đây là một số bài thơ Thú Xương hay nhất được VOH tổng hợp.
Tú Xương là ai?
Tú Xương (Trần Tế Xương) tên thật là Trần Duy Uyên, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích. Ông sinh ra tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.
Tú Xương nổi tiếng thông minh, nhưng cuộc đời ông lận đận chuyện thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.
Cuộc sống của ông thiếu thốn về vật chất. Sự nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn biền mà ông trải qua được ông lột tả một cách chân thực nhất thông qua những vần thơ của mình.
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, ông đã để lại cho nền văn học dân tộc với hơn 150 bài thơ đủ các thể loại. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như:
- Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ - NXB Văn hóa
- Thơ văn Trần Tế Xương - NXB Văn học (1970)
- Tú Xương thi tập do nhà sách Phúc Chí - 95 Hàng Bồ, Hà Nội
- Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương)
- Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán (1931 - sau có tái bản)
Những bài thơ trào phúng của Tú Xương
Tú Xương được biết đến là một nhà thơ trào phúng xuất sắc. Nét độc đáo trong thơ Tú Xương chính là sự kết hợp giữ các yếu hiện thực, trào phúng và trữ tình để nói lên tiếng lòng của mình.
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Mùa nực mặc áo bông
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không!
Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.
Đất biết bao giờ sang vận đỏ?
Trời làm cho bõ lúc chơi ngông!
Gần chùa gần cảnh ta tu quách,
Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng.
Tự cười mình
1.
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành
2.
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé nó hay chơi
Cho hay công nợ âu là thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi
Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng
Khéo khéo không mà nó cũng rơi.
Bợm Già
Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang,
Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng.
Kiện hết sở Tuần, vô sở Sứ
Khi thì thầy số, lúc thầy lang.
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,
Phong lưu đài các giống ông hoàng.
Phong lưu như thế phong lưu mãi,
Điếu ống, xe dài độ mấy gang?
Bỡn Tri Phủ Xuân Trường
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên.
Chữ “thôi” chữ “cứu” không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ “tiền”!

Ông cò
Hà Nam danh giá nhất ông cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to!
Thói đời
Người bảo ông điên, ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền.
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền.
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!
Ba cái lăng nhăng
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ đó
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Quan tại gia
Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,
Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.
Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,
Trống hầu vừa dứt, bố lên thang.
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Đi Hát Mất Ô
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày chân anh dận, ô tay anh cầm
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa
Chỉn e rầy gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình?
Đất Vị Hoàng
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?

Vì Tiền
Vì chưng chẳng có, hoá thân hèn,
Hổ với anh em, chúng bạn quen.
Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,
Bây giờ đi lại dám mon men!
Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,
Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột, chán người khen.
Vịnh Khoa thi hương (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Giễu người thi đỗ
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngôi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng!
Phường nhơ
Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ
Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ.
Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp
Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ
Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản
Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ.
Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế,
Vẽ ông ôm đít để lên thờ.
No comments:
Post a Comment