Hoài cổ Trường thành hoài cổ
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu Hạ Di rồi.[1]
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi[2].
Khảo dị:
Nghĩ chuyện đời xưa ‡ chán mớ đời,
Làm ăn như thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ ‡ bao ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan ‡ thiên hạ cả,
Phá ‡ toang giậu sắt Hạ Di rồi.
‡ Chuyện đời thôi ‡ cũng đừng nên nghĩ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.
Tự trào Cảm hứng • Đề ảnh
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước[1],
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng[2].
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng[3].
Vịnh nước lụt
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Tỵ trước[1] Tỵ này[2] chục lẻ ba,
Thuận dòng nước cũ lại bao la.
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.
Bắc bậc người còn chờ chúa đến,[3]
Đóng bè ta phải rước vua ra.[4]
Sửa sang việc nước cho yên ổn,
Trời đã sinh ta ắt có ta.
Năm Quý Tỵ (1893), năm Ất Tỵ (1905) cách nhau 12 năm, vùng Nam Hà đều có lụt lớn do vỡ đê sông Hồng, mùa màng mất mát, nhiều người chết đói.
Vịnh Mạc trạng nguyên 詠莫狀元 • Vịnh trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
Hải đông sơn thuỷ xuất chân nho,
Niên thiếu tài danh mạc quả trù.
Đào lãng thiên tằng cao phấn tấn,
Hoàng hoa vạn lý tráng trì khu.
Phiến minh ký áp Cao Ly đảo,
Tước giải hoàn giao tể tướng ngu.
Tế sự mạc phi cầu cổ tích,
Liêu bằng đoản thập điếu tiền tu.
Dịch nghĩa
Sông núi Hải Đông sinh ra bậc chân nho,
Tuổi trẻ tài danh ít người sánh kịp.
Đã vượt cao trên ngàn tầng sóng đào,
Lại mạnh mẽ ruổi rong muôn dặm đi sứ.
Việc đề thơ cái quạt đã áp đảo xứ Cao Ly,
Lời giải thích về giống chim sẻ làm rõ cái ngu của tể tướng.
Những việc nhỏ nhặt không gì là không có dấu vết,
Tạm mượn bài thơ ngắn để tỏ lòng nhớ tiếc bậc tiên hiền xưa.
Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông.
Thời trẻ tài danh, ai sánh cùng?
Chân nho lừng lẫy khắp miền đông.
Ngàn tầng sóng đỏ, danh đà vượt,
Muôn dặm đường trường, sứ ruổi rong.
Vịnh quạt, tứ thơ hơn sứ bạn,
Xé tranh, sẻ trúc luận văn chương.
Chuyện xưa còn đó dù to nhỏ,
Tưởng nhớ hiền nhân, mượn mấy dòng.
Cảm hứng tuổi già Tự thuật Nguyễn Khuyên
Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay,
Ông gẫm[1] mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ[2] không biết nhỉ!
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa? Thưa rằng được.
Chén rượu say rồi. Nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề có sách chép là Tự thuật, bản trong Quốc văn tùng ký chép là Cảm hứng, bản trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Vọng tưởng hý tác, bản trong Quế Sơn thi tập chép là Hý tác.
Khuyên người làm lẽ
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Lấy chồng làm lẽ có can chi.
Tôi đòi phận trước còn nhiều kẻ,
Hầu hạ duyên sau chẳng một dì.
Ví được sánh duyên người lịch sự,
Còn hơn chính thất kẻ ngu si.
Dẫu rằng cơm nguội nhà ngoài đó,
Cũng đủ phong lưu chẳng thiếu gì.
Mậu Thân tự thọ Cảm hứng • Đại thọ
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Năm nay tớ đã bảy mươi tư,
Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.
Lúc hứng đánh thêm ba chén rượu[1],
Ngồi buồn ngâm láo mấy câu thơ[2].
Bạn già lớp trước nay còn mấy?
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như[3].
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa[4],
Thử xem mãi mãi[5] thế này ư?
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381). Tiêu đề có bản chép là Cảm hứng, Đại lão. Mậu Thân tức năm 1908.
Vịnh tiến sĩ giấy bài 2 Ông nghè tháng tám
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ NômCũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng[1],
Nét son điểm rõ mặt văn khôi[2].
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời[3]!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Ông nghè tháng tám.
No comments:
Post a Comment