Friday, June 20, 2025

Thơ của Bà Huyện Thanh Quan

 

Thơ của Bà Huyện Thanh Quan tuy không nhiều nhưng lại thể hiện rất rõ tài năng và phong cách của bà, khiến bà trở thành một trong những nữ sĩ tiêu biểu của thơ ca Nôm Việt Nam.

Cùng tìm hiểu thơ Bà Huyện Thanh Quan trong bài viết dưới đây.

Tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan (1805 - 1848) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nữ thi nhân thời cận đại của văn học Việt Nam. Thơ của bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật nhưng cũng giàu nhạc điệu và đầy chất nữ tính. 

Bà người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Lý (1755 - 1837), đỗ thủ khoa năm 1783 đời vua Lê Hiển Tông. Chồng bà Lưu Nghị (1804 - 1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông Nghị đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2), từng làm Tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.


Những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan hay nhất

Vốn là phận nữ nhi, không thể trực tiếp thể hiện tiếng nói của mình, Bà Huyện Thanh Quan muốn dùng văn thơ để diễn tả “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” về thời cuộc. Cùng đọc những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan để hiểu thêm về điều này.

Qua đèo Ngang

 Bà Huyện Thanh Quan

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, 
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng... ta với ta.


Buổi chiều lữ thứ

Bà Huyện Thanh Quan

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?


Thăng Long hoài cổ

Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

 Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngan năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường


Chiều hôm nhớ nhà

Bà Huyện Thanh Quan

Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,

Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.

Ngàn mai lác đác, chim về tổ,

Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.

 Còi mục thét trăng miền khoáng dã,

Chài ngư tung gió bãi bình sa.

Lòng quê một bước nhường ngao ngán,

Mấy kẻ tình chung có thấu là?


Friday, June 13, 2025

 

Bỡn Nhân Tình

Tao ở nhà tao, tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói rằng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi ta đã làm chi được,
Làm được ta làm đã lắm khi


Con Đường Làm Quan

Tuổi tác tuy rằng chửa mấy mươi
Ðổi thay mắt đã thấy ba đời
Ra trường danh lợi, vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười
Chuyện cũ trải qua đã chán mắt
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi
Ðã hay 
thời thế thi ra thế
Sạch nợ tang bồng mới kể ngươi.




Đi Thi Tự Vịnh

Đi không há lẽ trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Lở đem thân thế hẹn tang bồng.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

Quân Tử Cố Cùng

Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu mấy năm nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong luu hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này...


Đây là bài thứ nhất trong bốn bài theo thể liên hoàn thất ngôn bát cú. Bốn bài là :
-Quân Tử Cố Cùng
-Hội Gió Mây
-Thú Ðiền Viên
-Thú Tiêu Dao



Thế Thái Nhân Tình

Thế thái nhân tình gớm ghiết thay!
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay.
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay.
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.

Thú Tiêu Dao

Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trờì trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.


Đây là bài thứ tư trong bốn bài theo thể liên hoàn thất ngôn bát cú. Bốn bài là :
-Quân Tử Cố Cùng
-Hội Gió Mây
-Thú Ðiền Viên
-Thú Tiêu Dao

Vịnh Cảnh Nghèo

Tác giả: Nguyễn Công Trứ

Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo,
Nghĩ phận thằng nghèo phải biết than.
Số khá bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân.
Trời đâu riêng khó cho ta mãi,
Vinh nhục dù ai cũng một lần.

Vịnh Thuý Kiều

Tác giả: Nguyễn Công Trứ

Đã biết má hồng thời phận bạc,
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
Chiếc quạt, thoa đành phụ nghĩa Kim lang,
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thì cũng phải.
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu,
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu,
Mà bướm chán ong chường cho đến thế !
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai !
Nghĩ đời mà ngán cho đời.


“LÀM TRAI SỐNG Ở TRONG TRỜI ĐẤT
PHẢI CÓ DANH GÌ VỚI NÚI SÔNG”
(Nguyễn Công Trứ).
(Tung hoành khoán, giao cổ- cú trung đối)
Tác giả: Thiết Dương
LÀM rạng cơ đồ trước gió giông
TRAI kiêu dũng tỏ máu tiên rồng
SỐNG vùng bão tợn kiềm mưu Bắc
Ở chốn mưa cuồng trấn ải Đông
TRONG trận vững tay ghìm sóng nổi 
TRỜI yên bể lặng giữa xuân hồng
ĐẤT thiêng khí vượng ta khôn lớn
PHẢI CÓ DANH GÌ VỚI NÚI SÔNG. 

Thiet Duong _ 29/4/2017


Thuật Hoài - Đặng Dung

Cảm Hoài [Thuật Hoài]

Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Đặng Dung 
.
.
NỖI LÒNG HÀO KIỆT 

Thế sự hỗn mang, tuổi chất chồng
Say ca giữa vũ trụ mênh mông
Gặp thời kẻ mọn nên khanh tướng
Lỡ vận người hùng uổng sức công
Phò chúa những mong xoay thế cuộc
Luyện binh nào cứu được non sông
Quốc thù chưa trả đầu sương trắng
Kiếm báu ta mài dưới nguyệt chong

Trần Bảo Kim Thư phỏng dịch
(Bài dịch theo cảm tính không theo sát nguyên tác)


Thursday, June 12, 2025


Chợ Trời

Tac gia : HO XUAN HUONG

Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi. 

Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời! 
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, 
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. 
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn, 
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi. 
Bán lợi, buôn danh nào những kẻ, 
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.



Đá Ông Chồng Bà Chồng

Tho HO XUAN HUONG
Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
Đá kia còn biết xuân già giặn,(2)
Chả trách người ta lúc trẻ trung.

(1) Hiện vẫn chưa rõ xuất xứ của đá, chỉ mới nghe truyền ngôn.
(2) Xuân già giặn, có nghĩa là già giặn tình xuân. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất rộng lượng với tuổi trẻ.


Đánh Đu

Tho   HO XUAN HUONG

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,(1)
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá. (2)
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!(3)


(1) Bốn cột: Bốn cây tre trồng làm cây đu.
(2) Chơi xuân: Cuộc vui chơi đón xuân. Biết xuân: Biết tình xuân.
(3) Cuối vụ chơi xuân, các cột đu lại nhổ đi hết, chỉ còn trơ lại các lỗ cọc và rồi người ta sẽ lấp đi. Hồ Xuân Hương chua chát nói về thói vô tâm rất đáng trách về phía nam giới.




Đèo Ba Dọi

Tác giả: Hồ Xuân Hương

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.


(1) Đèo Ba Dọi hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không phải Đèo Ngang như có sách đã nhầm.






Dệt Cửi

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò(1) mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt(2) đâm ngang thích thích mau.
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ(3)
Chờ đến ba thu mới dãi màu.(4)


(1) Con cò: Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thắng sợi, làm chuẩn mực cho cái go khỏi lệch theo.
(2) Suốt: ống suốt cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi.
(3) Ngâm cho kỹ: Sợi vải hồ bằng nước cơm đem ngâm lâu cho bền và óng màu hồ.
(4) Chờ đến nắng hanh của ba tháng thu, nhấn nâu đem dãi nhiều lượt thì vải nhuộm mới lên màu và sẫm dần lại.





Hang Cắc Cớ

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, 
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, 
Con đường vô ngạn(2) tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc(3)
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!


(1) Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này"
(2) Vô ngạn: Không có thành bờ tay vịn.
(3) Xuyên tạc: Xoi và đục thông qua đá.




Hang Thanh Hóa

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Khen thay con tạo khéo khôn phàm, 
Một đố dương ra biết mấy ngoàm. 
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp. 
Lách khe nước rỉ, mó lam nham. 
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ, 
Hai tiể lưng tròn đứng giữ am. 
Đến mới biết rằng hang Thanh Hóa, 
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham.




Hỏi Trăng

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ(1) đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích(2) khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung(3) cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.(4)
Hỡi người bẻ quế(5) rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga(6) ghé mắt dòm.


(1) Quế đỏ: Huyền thoại nói trong mặt trăng có cây quế đỏ.
(2) Chiếc bích: Chiếc ngọc bích hình tròn dẹt, giữa có lỗ, người ta gọi mặt trăng là bích nguyệt.
(3) Người ta thường ví đường cong của mặt trăng như người tráng sĩ giương cánh cung.
(4) Ca dao: "Thằng Cuội ngồi gốc cây đa; Để trâuăn lúa gọi cha ời ời..." ở đây vì tức tối nên thằng Cuội không ngồi mà đứng.
(5) Bẻ cành quế đỏ (đan quế) trên cung trăng, chỉ người thi đỗ tiến sĩ.
(6) Hằng Nga: Huyền thoại nói Hằng Nga vợ Hậu Nghệ ăn trộm thuốc tiên của chồng do bà Tây Vương mẫu cho, rồi một mình trốn lên ở cung trăng.



Mắng Học Trò Dốt I

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

(1) Bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn kéo lũ đi ghẹo gái, lại tập tọng đua đòi vần vè ví von, nên Hồ Xuân Hương lấy làm khó chịu mà viết bài thơ này.







Quả Mít

Tác giả: Hồ Xuân Hương
Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó sù sì, múi nó dày.
Quân tử có yêu thì đóng cọc,(1)
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.


(1) Đóng cọc: Cọc đóng sâu vào nõ quả mít đem phơi nắng cho chóng chín.


























Thơ của Bà Huyện Thanh Quan

  Thơ của Bà Huyện Thanh Quan tuy không nhiều nhưng lại thể hiện rất rõ tài năng và phong cách của bà, khiến bà trở thành một trong những nữ...